Các chỉ số theo dõi đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường
1. Đái tháo đường – là căn bệnh mạn tính nguy hiểm
Đái tháo đường là bệnh lý của tuyến tụy gây ra do thiếu hụt insuline hoặc đề kháng sinh insuline, từ đó làm lượng đường trong máu tăng cao và gây ra nhiều biến chứng trên các cơ quan.
Biến chứng cấp tính: hôn mê tăng hoặc hạ đường huyết, hạ đường huyết, suy thận cấp
Biến chứng mạn tính:
Điều trị kiểm soát đường huyết, mỡ máu, huyết áp, đạm niệu, cân nặng tốt, không thuốc lá giúp ngăn ngừa biến chứng xảy ra.
Để đánh giá hiệu quả kiểm soát đường huyết thông qua chỉ số đường có các phương pháp:
1.1 Đường huyết mao mạch
Đây là phương pháp thông dụng nhất, bệnh nhân có thể tự thử đường huyết ở nhà để theo dõi, hoặc được lấy máu tại bệnh viện. Có sự chênh lệch chỉ số giữa máu thử đường mao mạch tại nhà và đường huyết tĩnh mạch tại bệnh viện.
Ưu điểm:
Khuyết điểm:
Đường huyết mao mạch phụ thuộc nhiều vào chế độ ăn và tình trạng tuân thủ điều trị thuốc của bệnh nhân. Nên nhưng trường hợp chế độ ăn thay đổi nhiều về thành phần thức ăn hoặc cữ ăn hoặc không tuân thủ điều trị tốt, thì ít có giá trị theo dõi. Ví dụ: ngày thử đường bệnh nhân ăn ít thử đường mao mạch tốt, những ngày không thử đường ăn uống nhiều tinh bột đường huyết sẽ cao, lúc đó mặc dù đường huyết mao mạch tốt nhưng các chỉ số khác sẽ cao bệnh nhân không kiểm soát đường huyết tốt.
Để khắc phục khuyết điểm của đường huyết mao mạch hoặc đường huyết tĩnh mạch một thời điểm thì các phương pháp sau như:
1.2 Fructosamine
Khi glucose được vận chuyển trong máu đến các tế bào thì glucose có gắn kết với các Protein đặc biệt là albumin, hiện tượng này gọi là glycosyl hóa. Khi lượng đường trong máu tăng cao thì hiện tượng glycosyl hóa cũng tăng cao. Thời gian bán hủy của albumin là 3 tuần, nên Fructosamine giúp đánh giá đường huyết trung bình trong khoảng 2 – 3 tuần.
Fructosamine thường được sử dụng khi:
Fructosamine không nên sử dụng khi bệnh nhân có rối loạn về chức năng tổng hợp protein của gan, giảm đạm máu.
1.3 HbA1c
Đường trong máu được gắng kết trên Hemoglobin (Hgb) của hồng cầu để đi đến nuôi các cơ quan. Thông thường quá trình gắng kết này xảy ra chậm và diễn ra suốt thời gian sống của hồng cầu là 120 ngày. HbA1c tăng 1% thì đường máu tăng trung bình khoảng 30mg% (1.7 mmol/l). Chỉ số HbA1c bình thường 4 – 6%.
HbA1c có thể dùng để chẩn đoán đái tháo đường (≥ 6.5%) hoặc theo dõi tình trạng đáp ứng điều trị của bệnh nhân. Chỉ nên thực hiện HbA1c mỗi 3 tháng/lần và có thể lấy bất kỳ lúc nào không cần nhịn ăn.
HbA1c cao phản ánh tình trạng kiểm soát đường kém, có nguy cơ bị các biến chứng do đái tháo đường gây ra.
HbA1c có thể bị ảnh hưởng bởi các tình trạng sau:
1.4 CGM – Đo đường huyết liên tục
CGM sử dụng một bộ phận cảm biến tí hon đặt dưới da vùng bụng và đo lường mức độ đường máu ở dịch ngoại bào liên tục. Nó truyền thông tin đến cảm biến sau đó gửi thông tin này đến máy nhắn tin không dây. Màn hình sẽ hiển thị lượng đường trong máu ở 1 phút, 5 phút và 10 phút. Nếu đường máu hạ thấp đến mức nguy hiểm hoặc tăng ở mức cao. Thì màn hình sẽ báo động cho bạn biết.
Hệ thống này có lợi ích:
CGM có chi phí đắt hơn nhiều so với các phương pháp khác nên được ưu tiên chỉ định trong các trường hợp: